Vị trí và vai trò của văn hóa trong đổi mới-phát triển: Thực tiễn và những vấn đề đặt ra

17/07/2021 15:19

Trong quá trình đổi mới thể chế, phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, đã tạo những tiền đề, điều kiện, môi trường,, đồng thời đặt ra những yêu cầu mới đối với văn hóa. Sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với văn hóa, cũng như vai trò của tất cả các chủ thể trong xã hội về văn hóa, đã tạo nên bước phát triển mới của nền văn hóa Việt Nam.

vna-potal-ban-chap-h-1626509913.jpg
Đại hội Đảng lần thứ XIII

I. Đánh giá khái quát 
 Những thành tựu cũng như yếu kém, bất cập trong phát triển văn hóa, đã được tổng kết - đánh giá chính thức nêu trong các văn kiện của Đảng (Nghị quyết các Đại hội Đảng và nghị quyết các Hội nghị Trung ương Đảng), Nhà nước. Xin nêu khái quát như sau: 
1. Kết quả chủ yếu 
 Sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đã có chuyển biến tích cực, đạt kết quả quan trọng:
 Tư duy lý luận về văn hóa có bước phát triển; nhận thức về văn hóa của các cấp, các ngành và toàn dân được nâng lên. 
Đời sống văn hóa của nhân dân ngày càng phong phú, nhiều giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc được phát huy, nhiều chuẩn mực văn hóa, đạo đức mới được hình thành. Văn hóa đã góp phần quan trọng nâng cao dân trí, dân chủ hóa đời sống xã hội, nâng cao tính năng động sáng tạo, tự chủ và tính tích cực xã hội của con người, hình thành các nhân tố mới, giá trị mới của con người Việt Nam.
Sản phẩm văn hóa, văn học nghệ thuật ngày càng phong phú, đa dạng; công nghệ thông tin, nhất là thông tin đại chúng có bước phát triển mạnh mẽ. Nhiều phong trào, hoạt động văn hóa đạt được những kết quả cụ thể, thiết thực; phát huy được truyền thống văn hóa gia đình, dòng họ, cộng đồng... 
Xã hội hóa hoạt động văn hóa ngày càng được mở rộng, góp phần đáng kể vào việc xây dựng các thiết chế văn hóa. Nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể được bảo tồn, tôn tạo; nhiều phong tục, tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số được nghiên cứu, sưu tầm và phục dựng; hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân được quan tâm. 
Công tác quản lý nhà nước về văn hóa được tăng cường, thể chế văn hóa từng bước được hoàn thiện. 
Đội ngũ làm công tác văn hóa, văn nghệ có bước trưởng thành; quyền tự do sáng tạo của văn nghệ sĩ được tôn trọng. 
Giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa có nhiều khởi sắc. 
2. Những hạn chế, yếu kém
So với những thành tựu trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thành tựu trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng; chưa đủ để tác động có hiệu quả xây dựng con người và môi trường văn hóa lành mạnh. 
Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và trong xã hội có chiều hướng gia tăng.
 Đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu; khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa miền núi, vùng sâu, vùng xa với đô thị và trong các tầng lớp nhân dân chậm được rút ngắn. 
Môi trường văn hóa còn tồn tại tình trạng thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã hội, tội phạm có chiều hướng gia tăng . 
Còn ít những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, có một số tác phẩm chạy theo thị hiếu tầm thường, chất lượng thấp, thậm chí có hại. Hoạt động lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật chưa theo kịp thực tiễn sáng tác. 
Việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa hiệu quả chưa cao, nguy cơ mai một chưa được ngăn chặn. Hệ thống thông tin đại chúng phát triển thiếu quy hoạch khoa học, gây lãng phí nguồn lực và quản lý không theo kịp sự phát triển. Một số cơ quan truyền thông có biểu hiện thương mại hóa, xa rời tôn chỉ, mục đích . 
Cơ chế, chính sách về kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế, về huy động, quản lý các nguồn lực cho văn hóa chưa cụ thể, rõ ràng. Hệ thống thiết chế văn hóa và cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động văn hóa còn thiếu và yếu, có nơi xuống cấp, thiếu đồng bộ, hiệu quả sử dụng thấp. 
Công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa các cấp, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao còn nhiều hạn chế, bất cập. 
Tình trạng nhập khẩu, quảng bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm văn hóa nước ngoài đã tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa của một bộ phận nhân dân, nhất là lớp trẻ.
3. Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém
Nhiều cấp ủy, chính quyền chưa quan tâm đầy đủ lĩnh vực này; lãnh đạo, chỉ đạo chưa thật quyết liệt. Việc cụ thể hóa, thể chế hóa Nghị quyết của Đảng còn chậm, thiếu đồng bộ và trong một số trường hợp thiếu khả thi. 
Công tác quản lý nhà nước về văn hóa chậm được đổi mới, có lúc, có nơi bị xem nhẹ, thậm chí buông lỏng; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm. 
Đầu tư cho lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng và còn dàn trải. Chưa nắm bắt kịp thời những vấn đề mới về văn hóa để đầu tư đúng hướng và có hiệu quả. 
Chưa quan tâm đúng mức công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. 
II. Về vị trí, vai trò của văn hóa đối với sự phát triển
Những đánh giá khái quát về sự phát triển văn hóa trong những năm đổi mới như nêu trên là xác đáng. Tuy nhiên, cần làm rõ hơn vai trò của văn hóa đối với sự phát triển của đất nước, trong quá trình đổi mới, làm rõ hơn những vấn đề đặt ra đối với sự phát triển văn hóa trong giai đoạn mới. 
1. Cách tiếp cận về văn hóa và vai trò của văn hóa
1). Văn hóa có vị trí và vai trò đặc biệt đối với sự phát triển của một quốc gia. Tuy nhiên, khi nhìn nhận về vị trí và vai trò của văn hóa đối với sự phát triển thường có những cách tiếp cận khác nhau, điều đó một phần quan trọng phụ thuộc vào quan niệm về văn hóa. Hiện nay, theo một số thống kê chưa đầy đủ có khoảng hơn 400 định nghĩa (khái niệm) về văn hóa với những giác độ tiếp cận khác nhau. 
Năm 2002, Tổ chức văn hóa, khoa học và giáo dục Liên hiệp quốc (UNESCO) đã đưa ra định nghĩa: “Văn hóa nên được đề cập đến như là một tập hợp những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin” .
Theo định nghĩa của UNESCO, văn hóa chứa đựng cả yếu tố vật chất và phi vật chất, tuy nhiên vai trò chủ yếu của văn hóa là về lĩnh vực tinh thần - phi vật chất (tâm hồn, tri thức, cảm xúc, văn học, nghệ thuật, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, đức tin…). Hơn nữa, theo định nghĩa này văn hóa thuộc phạm trù của cả một xã hội hay một nhóm người, như vậy vai trò của văn hóa trong cá nhân con người và vai trò của văn hóa trong thể chế chính trị - xã hội (nhất là nhà nước) đã không được đề cập tới. 
2). Quan niệm của Đảng ta về văn hóa cũng có những bước phát triển.

Năm 1986, Đảng ta kế thừa và phát triển quan điểm về văn hóa của các giai đoạn trước, đưa ra quan điểm: “Văn hóa là nhu cầu thiết yếu của đời sống con người, thể hiện trình độ phát triển chung của đất nước, là lĩnh vực sản xuất tinh thần, tạo ra các giá trị, sản phẩm làm giàu đẹp cuộc sống”.
Năm 1998, Nghị quyết T.Ư 5 (khóa VIII) của Đảng về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, khẳng định “Văn hóa Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do cộng đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ nước…, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc”. “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội”.
Nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI) “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” đã nhấn mạnh “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”.
Tiếp tục phát triển các quan điểm trước đây về phát triển văn hóa, Đại hội XII của Đảng đã nhấn mạnh quan điểm văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh hun đúc nên phẩm chất, cốt cách con người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Nhấn mạnh xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. 
Như vậy, quan niệm của Đảng ta về văn hóa cũng khảng định “Văn hóa là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần”, nhưng đồng thời khẳng định vai trò của văn hóa “là nhu cầu thiết yếu của đời sống con người”, “ là lĩnh vực sản xuất tinh thần, tạo ra các giá trị, sản phẩm làm giàu đẹp cuộc sống”, “là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh”, “là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước”. Đồng thời chỉ rõ vị trí của văn hóa - “Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”. Ở đây có thể nêu lên hai nhận xét: Thứ nhất, Đảng ta vẫn xếp văn hóa thuộc lĩnh vực tinh thần, và do đó vai trò của văn hóa chủ yếu thuộc lĩnh vực tinh thần. Thứ hai, mặt khác, khi khẳng định văn hóa “là sức mạnh nội sinh” của sự phát triển, và “Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội ”, đã cho thấy trên thực tế vị trí và vai trò của văn hóa chưa được nhận thức và coi trọng đúng mức, văn hóa chưa được tiếp cận là nội dung mang tính bản chất, hữu cơ của chính các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, vẫn còn được coi là yếu tố “bên ngoài, bên cạnh” tác động qua lại với các lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội.
Khi chưa nhận thức rõ văn hóa là một trong những nền tảng cốt lõi, cơ bản, mang tính bản chất của sự phát triển của cả kinh tế, chính trị và xã hội, thì trên thực tế chưa xác định đúng vị trí và vai trò của Văn hóa. Và khi đó văn hóa chưa thể đóng vai trò là sức mạnh nội sinh của sự phát triển.
3). Để xác định đúng vị trí và vai trò của văn hóa đối với sự phát triển, cần thiết phải nhận thức sâu sắc quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hóa. Năm 1943 Người nêu lên quan niệm tổng quát về văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do loài người sáng tạo ra, Người viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoại hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. Quan niệm tổng quát của Hồ Chí Minh về văn hóa cho thấy, văn hóa không chỉ là lĩnh vực tinh thần, văn hóa chính là đời sống lao động sáng tạo gắn với phương thức tổ chức đời sống của xã hội loài người, văn hóa vừa là nhân tố bản chất bên trong vừa là kết quả trực tiếp của quá trình phát triển con người, của nền sản xuất xã hội và của các hình thức tổ chức tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia, của xã hội loài người. Hay nói một cách khái quát, văn hóa là phương thức tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Có thể chính vì vậy mà cách đây 7 thập kỷ, từ những ngày đầu cách mạng mới thành công, Hồ Chí Minh đã nói đến nguyên lý “Văn hoá soi đường quốc dân đi”. Rõ ràng Người đã xác định rất sâu sắc vai trò của văn hóa đối với sự phát triển của đất nước. 
Ngoài nghĩa tổng quát về văn hóa, Hồ Chí Minh cũng nói về văn hóa theo nghĩa hẹp là những giá trị tinh thần: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề cần chú ý đến, cũng phải coi là quan trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá. Nhưng văn hoá là một kiến trúc thượng tầng (báo Cứu quốc, tháng 8- 1945); hoặc theo nghĩa rất hẹp, văn hoá đơn giản chỉ là trình độ học vấn của con người, Người yêu cầu mọi người “phải đi học văn hóa”, “xóa mù chữ”...Có thể thấy nghĩa hẹp và nghĩa rất hẹp về văn hóa trong quan niệm của Hồ Chí Ninh cũng nằng trong quan niệm phổ quát của Người về văn hóa.
Cùng cách tiếp cận về văn hóa với Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng cho rằng “văn hóa…bao gồm tất cả những gì không phải là thiên nhiên mà có liên quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại, phát triển, quá trình con người làm nên lịch sử…, bao gồm cả hệ thống giá trị: tư tưởng và tình cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh” . Theo quan niệm này, văn hóa là những gì không phải là thiên nhiên và do con người sáng tạo nên. Tuy nhiên, với sự phát triển của loài người, nhất là về khoa học - công nghệ, thiên nhiên “hoang sơ” không có dấu chân người cũng không còn nữa. Vì vậy, thiên nhiên ngày nay cũng có thể nói là thiên nhiên văn hóa rồi, con người và thiên nhiên hòa quyện với nhau trở thành một thực thể văn hóa. Điều đó đang nói lên một vai trò rất mới của văn hóavăn hóa sinh thái. Chính vì vậy, Liên hợp quốc đã đưa ra khái niệm phát triền bền vững là phát triển bền vững cả về kinh tế, chính trị - xã hội, văn hóa và môi trường sinh thái. Có thể nói quan niệm phát triển bền vững là một giá trị văn hóa tổng hợp của sự phát triền trong thời đại ngày nay, và trở thành một giá trị nhân loại.
2. Nhận thức về “Văn hóa là sức mạnh nội sinh của sự phát triển” 
Khi đã khẳng định “Văn hóa là sức mạnh nội sinh của sự phát triển” thì cần nhận thức sâu sắc rằng, để trở thành sức mạnh nội sinh văn hóa phải ở “bên trong” và là một yếu tố - nội dung mang tính bản chất của kinh tế, chính trị, xã hội và môi trường sinh thái. Văn hóa không thể nhìn nhận chỉ như những yếu tố “bên ngoài, bên cạnh” tác động qua lại với kinh tế, chính trị, xã hội và môi trường sinh thái, mặc dù văn hóa được nhìn nhận có tính độc lập tương đối với các lĩnh vực này. Khi đã nhận thức “Văn hóa là sức mạnh nội sinh của sự phát triển” thì một vấn đề cần được trả lời tiếp là văn hóa nằm ở đâu ? trong các chủ thể nào ? của chủ thể nào ? trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội và môi trường sinh thái. Cần phải thấy rằng văn hóa nằm trong tất cả các chủ thể, các thiết chế, các tổ chức, các đối tượng chịu sự tác động qua lại của các chủ thể với con người và hoạt động của con người trong xã hội. Có thể nêu lên các chủ thể cơ bản của văn hóa là: Quốc gia - Dân tộc; Hệ thống chính trị; Đảng và các tổ chức trong hệ thống của Đảng; Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống quyền lực nhà nước; Hệ thống các tổ chức chính trị - xã hội; các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp;Hệ thống các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế khác; Hệ thống các đơn vị sự nghiệp; Các gia đình, dòng họ; Các cộng đồng người, tộc người; Các cá nhân;…
Khi xác định “Văn hóa là sức mạnh nội sinh của sự phát triển” thì tất yếu phải làm rõ sức mạnh nội sinh mang tính bản chất cốt lõi của văn hóa trong các chủ thể này trong quá trình vận động và phát triển. Bản chất văn hóa cốt lõi trong các chủ thể đó lại phụ thuộc một cách căn bản vào chức năng và vai trò xã hội của từng chủ thể. Có chủ thể có chức năng và vai trò là lãnh đạo - quản lý xã hội (như các tổ chức Đảng cầm quyền và tổ chức Nhà nước), có chủ thể hoạt động theo cơ chế tự chủ trong xã hội trong khuôn khổ pháp luật, có chủ thể có vị trí là người “bị lãnh đạo - quản lý”…Điều đó cho thấy trong mỗi chủ thể có hai chức năng văn hóa khác nhau : chức năng văn hóa là sức mạnh nội sinh cho hoạt động và phát triển của chính chủ thể đó, và chức năng văn hóa tác động (tương tác) với các chủ thể khác trong xã hội. Hai chức năng văn hóa này trong mỗi chủ thể liên quan mật thiết - biện chứng với nhau tạo thành bản chất văn hóa của chủ thể; đồng thời bản chất văn hóa của mỗi chủ thể lại tương tác hữu cơ với bản chất văn hóa của các chủ thể khác trong xã hội theo những phương thức khác nhau: thuận chiều, lệch chiều, ngược chiều, cộng hưởng, thúc đẩy hay kìm hãm, hạn chế, áp đặt…Quá trình tương tác này tạo thành bản chất văn hóa ở cấp độ hệ thống cao hơn, rộng hơn, lên tới cấp Quốc Gia - Dân tộc, kết nối với quốc tế. Xét trên bình diện Quốc gia - Dân tộc thì bản chất - vị trí - vai trò - chức năng văn hóa của hai chủ thể là Đảng cầm quyền và Nhà nước có tầm quan trọng “áp đặt” và chi phối mạnh nhất đối với tất các chủ thể khác trong xã hội, vì hai chủ thể này có vai trò lãnh đạo - quản lý sự phát triển của xã hội. Điều này không đồng nghĩa với việc bản chất - vị trí - vai trò - chức năng văn hóa của hai chủ thể là bất kỳ Đảng cầm quyền nào và Nhà nước nào, khi nào và luôn luôn có tác động tích cực, thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Điều này còn phụ thuộc một cách quyết định vào bản chất và giá trị văn hóa mà Đảng cầm quyền và Nhà nước “đặt ra” cho xã hội, định hướng phát triển xã hội. Trên thế giới, không ít Đảng cầm quyền cùng với Nhà nước do Đảng đó lãnh đạo đã bị thất bại (mất quyền lãnh đạo, hay để đất nước rơi vào trì trệ, khủng hoảng sau một thời gian cầm quyền có thể là rất dài trong hàng nhiều thập kỷ), một trong những lý do cơ bản là Đảng cầm quyền và Nhà nước đó đã đưa ra những giá trị văn hóa - giá trị xã hội không phù hợp (hay mâu thuẫn) với yêu cầu khách quan của sự phát triển, mâu thuẫn (có khi tạo nên sự xung đột) với những giá trị văn hóa của các chủ thể khác trong xã hội, nhất là giá trị văn hóa của con người, của gia đình, các cộng đồng và hệ thống các doanh nghiệp. Khi đó văn hóa không tạo được (và không là) sức mạnh nội sinh của sự phát triển của từng chủ thể, và nhất là không tạo được sức mạnh nội sinh cho sự phát triển của toàn bộ hệ thống xã hội - của quốc gia. Bởi vì mọi điều áp đặt các giá trị trái quy luật có thể đưa lại sức mạnh nhất thời, nhưng rồi sẽ phải “trả giá” bằng những thất bại, nếu không có sự điều chỉnh kịp thời. Về điều này rất cần nhớ lời F. Engghen đã nói : Một dân tộc đi xâm lược dân tộc khác, bằng bạo lực có thể áp đặt quyền cai trị lên dân tộc đó, nhưng sẽ không đồng hóa được dân tộc đó nếu dân tộc đi xâm lược có trình độ văn hóa thấp hơn, mà ngược lại, sẽ bị dân tộc bị xâm lược đồng hóa ngược lại. Trong lịch sử hơn một ngàn năm bị Bắc thuộc của dân tộc ta cũng nói lên điều này : Dưới các  lũy tre làng của Việt Nam chứa đựng những giá trị văn hóa - sức mạnh nội sinh mà phong kiến Phương Bắc không thể xóa đi được, không thể đồng hóa được. Đó chính là sức mạnh nội sinh cho sự đấu tranh, chiến đẩu giành lại, gìn giữ, bảo vệ nền độc lập và phát triển trường tồn của dân tộc Việt Nam. 
3. Văn hóa của Đảng cầm quyền - Nhà nước và hệ giá trị phát triển
Trong thời đại ngày nay, văn hóa của Đảng cầm quyền và Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của một quốc gia. Văn hóa đó được thể hiện ở những giá trị cả trong nội dung - cơ chế vận hành nội bộ hệ thống Đảng và Nhà nước và trong nội dung và cơ chế tương tác (mang tính chất lãnh đạo - quản lý - quản trị) với xã hội trên nhiều bình diện và cấp độ khác nhau. Có thể nêu lên những giá trị trong các nội dung chính sau :
- Các giá trị phát triển thể hiện trong cương lĩnh, định hướng chiến lược vả mục tiêu phát triển đất nước, trong đó chứa đựng hệ thống các quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm và lợi ích của tất cả các chủ thể, nhất là của con người, công dân;
- Thể hiện ở các giá trị được chế định trong Hiến pháp và hệ thống pháp luật;
- Thể hiện ở chất lượng hệ thống thể chế, cơ chế, chính sách phát triển;
- Thể hiện ở chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống tổ chức - bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức; 
- Thể hiện ở nội dung và cơ chế tương tác (lãnh đạo, quán lý, quản trị) đối với xã hội;
- Thể hiện ở tính liêm chính và trách nhiệm giải trình của hệ thống Đảng và Nhà nước, của đội ngũ cán bộ, công chức.
Văn hóa được thể hiện ở nhiều phương diện khác nhau, nhưng có thể thấy được thể hiện tập trung nhất là ở Hệ các giá trị phát triển. Nền văn hóa của một quốc gia có hệ giá trị chung của tất cả các chủ thể tạo nên đặc trưng của nền văn hóa quốc gia - dân tộc. Nhưng trong đó mỗi chủ thể xã hội có hệ giá trị đặc trưng riêng của mình, có thể có những giá trị thống nhất với hệ giá trị văn hóa chung của dân tộc, có thể có những giá trị không thống nhất, khác biệt (thậm chí mâu thuẫn) với hệ giá trị văn hóa chung của dân tộc, với hệ giá trị văn hóa của các chủ thể khác. Hệ giá trị văn hóa của mỗi chủ thể chứa đựng hai loại giá trị : loại những giá trị thể hiện bản chất bên trong (sự vận động bên trong) của mỗi chủ thể, những giá trị này của chủ thể được thể hiện (giới thiệu) ra thành “ta là ai” trong mắt của các chủ thể khác và trong xã hội; và loại những giá trị tương tác với các với các chủ thể khác và với toàn xã hội theo chức năng xã hội của mình. Về nguyên tắc, có sự thống nhất biện chứng giữa hai loại giá trị đó trong mỗi chủ thể và thể hiện bản chất thực tế của mỗi chủ thể. Tuy nhiên, trong những điều kiện, hoàn cảnh khách quan và chủ quan nào đó, hai loại giá trị đó của một chủ thể có thể có những giá trị không thống nhất với nhau, thậm chí mâu thuẫn với nhau. Đây là vấn đề phức tạp. Điều này được thể hiện rõ nhất ở những giá trị văn hóa của Đảng cầm quyền và Nhà nước : Đảng và Nhà nước thường “cầm chịch” đưa ra những giá trị con người, giá trị xã hội, giá trị văn hóa, giá trị phát triển tốt đẹp của nước. Những giá trị đó thường được nêu trong cương lĩnh của Đảng, được chế định cả trong Hiến pháp, hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách và mục tiêu phát triển quốc gia. Nhưng trên thực tế, ở không ít Đảng cầm quyền và Nhà nước lại có tình trạng một bộ phận đại diện “dung dưỡng”, bao che, hay bất lực trước sự phát triển của những “giá trị văn hóa tiêu cực” ở những mức độ khác nhau (có người gọi là phản văn hóa) trong hệ thống Đảng và Nhà nước, như : mất dân chủ, quan liêu, cửa quyền, xa dân, đặc quyền đặc lợi, tham nhũng, lợi ích nhóm, “chủ nghĩa tư bản thân hữu”, chạy chức chạy quyền, “mua quan bán tước”…Những giá trị tiêu cực đó của Đảng cầm quyền và Nhà nước thường có những tác động hết sức xấu đối với sự phát triển của xã hội, vì một mặt nó trái với những giá trị tốt đẹp được tuyên bố, được chế định về mặt pháp lý và đạo đức; mặt khác, các giá trị tiêu cực đó thường được “nuôi dưỡng”, “bảo kê” bằng những thể chế “lãnh đạo - quản lý” quan liêu nhưng lại nhân danh Đảng - Nhà nước để tồn tại và lan tỏa trong xã hội (ví dụ những “lỗ hổng” về mặt thể chế và cơ chế dẫn đến tình trạng tham nhũng, “chủ nghĩa tư bản thân hữu”, hệ thống “giấy phép con” tồn tại trái với yêu cầu khách quan của sự phát triển, đề bạt và sử dụng cán bộ, công chức không theo thực đức - thực tài…). Có thể nói, hiện tượng tồn tại các giá trị mâu thuẫn nhau, khoảng cách “giữa lời nói và việc làm” có thể xảy ra trong tất cả các chủ thể ở mức độ khác nhau, ngay trong mỗi con người. Chức năng là “sức mạnh nội sinh của sự phát triển” của văn hóa mạnh hay yếu, bền vững hay không phụ thuộc một cách căn bản vào: mức độ thống nhất giữa hai loại giá trị đó trong mỗi chủ thể, và mức độ thống nhất giữa hai loại giá trị đó của tất cả các chủ thể trong toàn bộ hệ thống xã hội - toàn bộ dân tộc, đặc biệt là sự thống nhất giữa các giá trị của Đảng cầm quyền - Nhà nước với toàn xã hội. 
Để nhận thức rõ hơn tầm quan trọng về mối quan hệ giữa các giá trị văn hóa của Đảng cầm quyền và Nhà nước với toàn bộ xã hội trong việc tạo lập sức mạnh nội sinh của sự phát triển, có thể nhìn rộng ra thực tiễn lãnh đạo - cầm quyền của những đảng trên thế giới. Cũng có những nước qua bầu cử dân chủ và công khai để lựa chọn những người (thực chất là đại diện cho các đảng) được dân chúng tín nhiệm nhất đứng ra thành lập chính phủ (cầm quyền); có những Đảng được đa số dân chúng tín nhiệm trao cho cầm quyền ổn định trong nhiều thập kỷ và đất nước rất phát triển. Nguyên nhân cơ bản là đảng đó đã đưa ra được cương lĩnh tranh cử với những giá trị phát triển đáp ứng (trùng với) những giá trị mong muốn và kỳ vọng của đa số dân chúng trong mỗi kỳ tranh cử. Và điều quan trọng là Đảng đó đã cầm quyền bằng hành động thực tế xây dựng một Nhà nước (chính phủ) hiện thực hóa các giá trị đó trong cuộc sống, một Nhà nước liên chính, có năng lực lãnh đạo và quản lý cao , “nói đi đôi với làm”, không tạo nên sự “xung đột” rộng lớn về mặt giá trị của Đảng cầm quyền và nhà nước với các chủ thể khác trong xã hội; mà ngược lại, tạo nên sự đồng thuận - liên kết giữa các giá trị của Đảng cầm quyền và Nhà nước với các chủ thể khác trong xã hội, tạo nên động lực nội sinh tổng hợp mạnh mẽ cho sự phát triển bền vững. Trên thực tế cũng có không ít đảng được dân chúng tín nhiệm trao cho cầm quyền, nhưng trong quá trình cầm quyền cùng với Nhà nước do Đảng đó lãnh đạo đã không hiện thực hóa được những giá trị tốt đẹp nêu trong cương lĩnh tranh cử, hoặc không đáp ứng được những giá trị mới nảy sinh trong quá trình phát triển, hoặc bộc lộ những “giá trị tiêu cực” trong quá trình cầm quyền (như tham nhũng, tiêu cực, vi phạm đạo đức công vụ…), đảng đó mất tín nhiệm và không được dân chúng tiếp tục trao cho cầm quyền khi bầu cử lại.
Trong Hệ các giá trị văn hóa, xét về phương diện động lực phát triển có ba giá trị là quan trọng nhất là : Giá trị lợi ích (hiểu theo nghĩa rộng gồm cả lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần); Giá trị pháp lý; Giá trị đạo đức. Sự phát triển mạnh mẽ, lành mạnh và bền vững của từng chủ thể trong xã hội, cũng như của toàn xã hội ở mức nào phụ thuộc một cách cơ bản vào sự thống nhất biện chứng giữa ba giá trị này. Tạo nên sự thống nhất biện chứng giữa ba giá trị đó có vai trò đặc biệt quan trọng của Đảng cầm quyền và Nhà nước trong việc chế định và thực thi các giá trị đó trong bản chất hoạt động của mình, trong việc tạo ra khung khổ pháp lý để hiện thực hóa các giá trị đó trong cuộc sống; trong việc Đảng cầm quyền và Nhà nước (đội ngũ cán bộ, công chức) làm gương hiện thực hóa các giá trị đó trong thực thi công vụ.
4. Vai trò của Văn hóa trong phát triển :  
Để xác định vai trò của văn hóa trong phát triển, cần hiểu rõ nội dung văn hóa mang tính bản chất trong hoạt động của mỗi chủ thể và trong toàn xã hội, gắn với vai trò và chức năng của từng chủ thể, như trên đã nói. Để hiểu rõ vai trò của văn hóa đối với sự phát triển thì cần tránh cách hiểu văn hóa thiên về giác độ cách ứng xử, quan hệ…; mà phải hiểu văn hóa là những giá trị cốt lõi định hướng, chi phối hoạt động của các chủ thể và toàn xã hội trong mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường sinh thái. Nhìn nhận một cách khái quát văn hóa có những vai trò chủ yếu sau :
i). Là cơ sở để xác lập các giá trị cốt lõi của mô hình - con đường - thể chế phát triển của một quốc gia - dân tộc, xác lập các giá trị cốt lõi của thể chế chính trị thực sự “của dân, do dân và vì dân”. Xác lập mục tiêu bao trùm của sự phát triển là vì con người; con người vừa là chủ thể vừa là mục tiêu của sự phát triển. Các giá trị này thường được xác định, chế định trong cương lĩnh của các Đảng cầm quyền, trong hiến pháp, pháp luật, chiến lược phát triển của quốc gia…
ii). Là cơ sở để xác lập các giá trị cốt lõi của thể chế kinh tế, triết lý và đạo đức kinh doanh thúc đẩy phát triển năng động, hiệu quả, hài hòa và bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường; phát triển bao trùm, “không để ai tụt lại phía sau”. Xác lập hệ giá trị phát triển chung của quốc gia trong định hướng phát triển dài hạn và trong những giai đoạn cụ thể. Hệ giá trị phát triển đó được cụ thể hóa thành các giá trị phát triển trong các lĩnh vực con người, chính trị, kinh tế, xã hội, môi trường sinh thái.
iii). Là cơ sở để xác lập các giá trị xã hội, lối sống xã hội, nền đạo đức xã hội thượng tôn pháp luật, nhân văn, nhân ái, tôn trọng quyền con người, quyền công dân. Là cơ sở để tạo nên “sức mạnh mềm” trong phát triển.
iv). Là cơ sở để xác lập hệ giá trị phát triển cùng với cơ chế hoạt động tương ứng của từng chủ thể trong xã hội (thể hiện những giá trị mà chủ thể đó tuân theo và hướng tới); tạo động lực nội sinh cho sự phát triển bền vững của từng chủ thể cũng như toàn xã hội với tư cách là một hệ thống mở trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
v). Là cơ sở để xác lập hệ giá trị hợp tác và hội nhập quốc tế trên cơ sở nguyên tắc đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên trên hết, đồng thời tôn trọng các lợi ích chính đáng của các quốc gia - dân tộc khác, hợp tác bình đẳng cùng phát triển và cùng có lợi, cùng bảo vệ các giá trị chung của nhân loại.  
vi). Là cơ sở để xây dựng cơ chế liên kết - điều tiết sự phát triển thông qua liên kết các giá trị giữa các chủ thể và trong toàn xã hội; hạn chế những tác động tiêu cực trong quá trình phát triển. 
Xét trên bình diện quốc gia - dân tộc, để văn hóa trở thành sức mạnh nội sinh của sự phát triển bền vững, thì các giá trị con người - văn hóa phải trở thành nền tảng cốt lõi trong mọi hoạt động của tất cả các chủ thể trong xã hội, nhưng trong đó trọng trách hàng đầu được đặt vào vai trò giá trị văn hóa của Đảng cầm quyền và Nhà nước. Có lẽ chính vì vậy, tại lễ kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng Chủ tịch Hồ Chí Minh nói :  
 “Đảng ta vĩ đại như biển rộng, như núi cao,
 Ba mươi năm phấn đấu và thắng lợi biết bao nhiêu tình,
 Đảng ta là đạo đức, là văn minh,
 Là thống nhất, độc lập, là hòa bình ấm no...”.
Trong các câu thơ trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về những “giá trị” văn hóa thể hiện bản chất của Đảng ta cần phải đấu tranh, phấn đấu gìn giữ và phát triển. Đảng có những giá trị đó, phát triển các giá trị đó trở thành giá trị đặc trưng bản chất tiêu biểu của Quốc gia - Dân tộc thì mới tạo thành sức mạnh nội sinh phát triển của cả dân tộc (trong đấu tranh cách mạng cũng như trong xây dựng đất nước). 
Để văn hóa trở thành sức mạnh nội sinh của sự phát triển trong mỗi chủ thể và liên kết thành sức mạnh nội sinh phát triển của cả xã hội, cần phải xây dựng và phát triển đồng bộ “ba trụ cột văn hóa” chủ yếu sau : i) - xây dựng và phát triển các giá trị đời sống - lối sống văn hóa; ii) - phát triển sáng tạo các giá trị văn hóa; iii) - xây dựng và phát triển đồng bộ các thể chế, thiết chế văn hóa. Nghĩa là các giá trị đó phải trở thành giá trị bản chất của đời sống thường nhật, được phát triển sáng tạo trong và gắn liền với sự phát triển của mọi lĩnh vực của xã hội (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường sinh thái…), và được một hệ thống đồng bộ các thể chế, thiết chế làm “giá đỡ” cho sự phát triển và phát huy các giá trị đó. 
Xét về phương diện văn hóa, thì những thắng lợi, thành công mà Đảng lãnh đạo nhân dân ta đứng lên làm cách mạng giành chính quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội đạt được trong xây dựng và bảo vệ đất nước đều có nguyên nhân cốt lõi là Đảng đã đưa ra được những giá trị thể hiện được ý chí, nguyện vọng, lợi ích của nhân dân - của dân tộc, đồng thời đội ngũ cán bộ, đảng viên đã thể hiện là những tấm gương mẫu mực trong tổ chức hiện thực hóa những giá trị đó trong cuộc sống. Còn những sai lầm, như Đại hội VI của Đảng chỉ rõ : sai lầm về đường lối, chủ trương, chính sách lớn và sai lầm trong lãnh đạo tổ chức thực hiện trong giai đoạn trước Đổi mới, xét cho cùng cũng là sai lầm trong định hướng các giá trị - mục tiêu phát triển không phù hợp với quy luật khách quan, không đáp ứng được ý chí, nguyện vọng, lợi ích của tuyệt đại đa số nhân dân - của dân tộc, thực tế đã dẫn đến sự “khủng hoảng” hệ giá trị phát triển, khủng hoảng niềm tin (mà niềm tin là một giá trị cốt lõi của văn hóa), làm cho sức mạnh nội sinh của văn hóa bị suy yếu đi, động lực phát triển bị tan rã, đất nước rơi vào cuộc khủng hoảng nghiêm trọng. Công cuộc Đổi mới toàn diện đất nước được Đảng đưa ra tại Đại hội VI (1986), xét về phương diện văn hóa, thì vấn đề đầu tiên và cũng là cốt lõi nhất chính là xác định lại hệ giá trị phát triển, trong đó cơ bản nhất là giá trị con người, giá trị lợi ích (hiểu theo nghĩa rộng gồn cả lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần), giá trị pháp lý, giá trị đạo đức của tất cả các chủ thể trong xã hội, phù hợp với đòi hỏi khách quan của sự phát triển trong giai đoạn mới . 
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ, mặc dù là nước nhỏ hơn, tiềm lực mọi mặt yếu hơn đối phương, phải trải qua nhiều năm chiến đấu trường kỳ, gian khổ, hy sinh, nhưng dân tộc ta đã chiến thắng vẻ vang. Một trong những nguyên nhân cốt lõi nhất chính là Đảng và Nhà nước ta đã đề ra được những đường lối, chủ trương, chính sách, giải pháp phát huy và phát triển các giá trị con người - giá trị văn hóa của dân tộc Việt Nam “không có gì quý hơn độc lập, tự do”, “mỗi dân tộc, mỗi con người đề có quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc”; những giá trị đó cũng là những giá trị nhân loại, vì vậy đã được sự đồng tình và giúp đỡ của các nước và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới. Sự giúp đỡ quý báu đó cùng với sức mạnh nội sinh con người - văn hóa Việt Nam đã tạo nên sức mạnh tổng hợp đánh thắng các “đế quốc to”.
III. Về vị trí-vai trò của văn hóa trong công cuộc đổi mới  
1. Vai trò của văn hóa trong thể chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp :
Để thấy rõ vị trí vai trò của văn hóa trong công cuộc đổi mới, chúng ta cần xem xét đối sánh với các giá trị được “chế định” trong giai đoạn trước đổi mới, nhất là giai doạn trước khi thống nhất đất nước (1975). Trước năm 1975, miền Bắc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, làm hậu phương lớn cho cuộc kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam, rồi từ năm 1964 phải đối đầu với cuộc chiến tranh phá hoại ác liệt của đế quốc Mỹ ra miền Bắc. Khi đó, trên phương diện chính thống, xác lập hai hệ thống giá trị : hệ thống các giá trị xây dựng CNXH (theo quan niệm cũ) gồm các giá trị cơ bản như xóa bỏ triệt để sở hữu và các thành phần kinh tế tư nhân, chỉ còn lại chủ yếu là sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể tương ứng với hai thành phần kinh tế là quốc doanh và HTX - tập thể hóa, xóa bỏ các giá trị của kinh tế thị trường, xác lập các giá trị của nền kinh tế kế hóa tập trung quan liêu bao cấp mang nặng tính bình quân, động lực lợi ích kinh tế bị xem nhẹ…Những giá trị đó là nền tảng đề Đảng và Nhà nước xác định thành các giá trị - mục tiêu trong đường lối, chủ trương, cơ chế, chính sách và giải pháp lãnh đạo và quản lý đất nước và xã hội. Đồng thời chính các giá trị đó lại là cơ sở để định hình các giá trị về con người - giá trị văn hóa - giá trị xã hội trong giai đoạn đó, được khái quát cao ở “chủ nghĩa làm chủ tập thể”, coi nhẹ lợi ích lợi ích cá nhân, lợi ích kinh tế…Đồng thời do yêu cầu khách quan của cuộc chiến tranh, đã hình thành các giá trị chiến tranh cốt lõi chi phối toàn bộ đời sống xã hội niềm bắc: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, “Tất cả cho tiền tuyến, cho đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, “thóc không thiếu một cân, quan không thiếu một người”. “xe chưa qua nhà không tiếc”, “cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù”…Có thể thấy rằng, những giá trị xây dựng CNXH theo mô hình cũ lại “ngẫu nhiên” tương thích - cộng sinh với những yêu cầu của các giá trị chiến tranh; một mặt “che lấp đi” những bất cập của những giá trị - động lực lợi ích kinh tế, vì trước vận mệnh sống còn của đất nước, mọi giá trị lợi ích cá nhân (nhất là lợi ích kinh tế) đều “tự nhiên” được coi là rất nhỏ bé và xếp sau lợi ích Quốc gia - Dân tộc; nhưng mặt khác lại tạo được sự gắn kết cộng đồng - sức mạnh tinh thần và ý chí của mỗi người, của mỗi làng xã và của cả dân tộc tạo nên sức mạnh “thà hy sinh tất cả đề bảo vệ nền độc lập, tự do và thống nhất đất nước”. 
Nhưng khi đất nước thống nhất (1975), cả nước đi vào xây dựng CNXH vẫn theo quan niệm và mô hình cũ, hệ giá trị tổng hợp của mô hình cũ trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội được áp dụng trong cả nước. Trong bối cảnh đó, các quy luật của chiến tranh (cũng là các giá trị chiến tranh) đã lùi lại phía sau, không còn trực tiếp chi phối quá trình xây dựng đất nước (mặc dù ảnh hưởng của nó còn tác động sâu rộng lâu dài); hệ giá trị tổng hợp của mô hình cũ phải “đối mặt” trực diện với các yêu cầu phát triển mới như năng xuất, chất lượng, hiệu quả sản xuất kinh doanh gắn liền với các quy luật kinh tế - được thể hiện tập trung ở các giá trị như lợi ích của từng cá nhân và mỗi chủ thể gắn với quyền tài sản và quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, quy luật gái trị, quy luật cạnh tranh, quy luật phân phối kết quả sản xuất kinh doanh và phúc lợi xã hội…Mô hình cũ cùng với những giá trị của nó đã không đáp ứng, không thích ứng với đòi hỏi khách quan của giai đoạn phát triển mới, không chỉ cản trở mà còn phá hủy sức mạnh mội sinh của sự phát triển, đưa đến sự khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng của đất nước trong cuối những năm 1970 - đầu những năm 1980 của thể kỷ XX. Sự khủng hoảng này, xét về giá độ văn hóa, thực chất sâu xa là khủng hoảng về hệ giá trị phát triển do mô hình cũ xác lập. Đó cũng là yêu cầu khách quan đưa đến công cuộc Đổi mới toàn diện đất nước được đưa ra tại Đại hội VI của Đảng (1986).  
2. Công cuộc Đổi mới : Cuộc hành trình đổi mới - xây dựng - xác lập - phát triển các giá trị con người - giá trị văn hóa - giá trị xã hội mới 
Công cuộc Đổi mới được bắt đầu từ thực tiễn, chính thực tiễn đã buộc Đảng, Nhà nước và mọi chủ thể trong xã hội phải đổi mới tư duy, nhận thức, quan điểm về con đường và mô hình phát triển, mà trọng tâm là phát triển kinh tế. Từ đổi mới tư duy, nhận thức mới đưa đến đổi mới đường lối, quan điểm, chủ trương, cơ chế, chính sách phát triển đất nước. 
Bước đột phá trong quan điểm của Đảng về lĩnh vực văn hoá gắn liền với Đại hội VI (1986) - Đại hội mở đầu thời kỳ đổi mới. Đảng đã khẳng định vị trí quan trọng của văn hoá trong việc xây dựng nhân cách, xây dựng lối sống cho con người. Yếu tố tinh thần của văn hoá một lần nữa được nhấn mạnh, hạt nhân của văn hoá tinh thần chính là rèn luyện đạo đức cách mạng, Đảng đã cụ thể hoá quan điểm ấy bằng hàng loạt Nghị quyết và chỉ thị mang tính định hướng cho quá trình phát huy hơn nữa vai trò của văn hoá đối với sự phát triển đất nước. Nhưng không chỉ trong lĩnh vực văn hóa hiểu theo nghĩa hẹp, mà chính các giá trị thể hiện trong các nghị quyết đổi mới như Khoán 100, Khoán 10, luật đất đai 1993, phát triển kinh tế tư nhân, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, dân chủ hóa xã hội… cũng là những giá trị nền móng mới về sự phát triển các giá trị con người, giá trị văn hóa, giá trị xã hội…tạo động lực cho sự phát triển đất nước. 
Xét theo giác độ văn hóa, quá trính Đổi mới chính là quá trình đổi mới căn bản hệ giá trị phát triển, được thể hiện trong những nội dung chính sau :
- Xác lập các giá trị của mô hình và thể chế phát triển mới đối với đất nước; xác lập các giá trị mới của mối quan hệ mới giữa nhà nước, thị trường và xã hội;
- Xác lập cấu trúc (giá trị) đa sở hữu gắn với đó là cấu trúc đa chủ thể (đa thành phần) phát triển kinh tế, cả quốc doanh và ngoài quốc doanh, trong đó có việc xác định hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ;
- Xác lập các giá trị của nền kinh tế thị trường (hiệu quả, cạnh tranh, quy luật giá trị…);
- Xác lập các giá trị về quyền tự do - tự chủ sản xuất kinh doanh;
- Xác lập các giá trị con người và công dân trong điều kiện kinh tế thị trường;
- Xác lập các giá trị xã hội, quan hệ xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường;
- Xác lập các giá trị của Việt Nam trong hội nhập quốc tế; 

Các giá trị đó, được Đảng và Nhà nước thể hiện trong cương lĩnh, đường lối, chủ trương, Hiến pháp, luật pháp, cơ chế, chính sách phát triển các lĩnh vực của đất nước. Mặt khác, các giá trị con người - văn hóa - xã hội lại được hình thành một cách khách quan (cả tích cực và tiêu cực) dưới tác động tổng hợp của các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội và quá trình hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa. Việc hình thành hệ giá trị mới thực sự là một quá trình đấu tranh cam go cả về nhận thức lý luận và thực hiện trong thực tiễn để từng bước nhận thức và chế định đúng đắn hơn trong quá trình phát triển. Trong quá trình Đổi mới, chuyển từ thể chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang thể chế kinh tề thị trường, đã có nhiều ý kiến thống nhất gọi đó là quá trình “cởi trói”. Xét về phương diện văn hóa đó là quá trình thay đổi hệ giá trị phát triển, “cởi bỏ” các giá trị không phù hợp và xác lập các giá trị mới phù hợp với yêu cầu khách quan của sự phát triển trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Để sự thay đổi này được xác lập trên bình diện toàn xã hội, thành dòng chủ đạo, thì đòi hỏi phải thay đổi nhận thức, tư duy về các giá trị phát triển trước hết của Đảng và Nhà nước phù hợp với yêu cầu của giai đoạn mới. Những thành tựu đạt được trong quá trình Đổi mới gắn liền với những đổi mới về giá trị phát triển, tạo thành động lực nội sinh của sự phát triển trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, như những giá trị về quyền sở hữu - quyền tự do - tự chủ trong sản xuất kinh doanh, giá trị về tính hiệu quả và cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường, giá trị về lợi ích kinh tế, giá trị về quyền con người - quyền công dân - quyền dân chủ, những giá trị mới về vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế… Tuy nhiên, cần phải thấy rằng có không ít những giá trị phát triển đã chậm được khảng định để đưa vào cuộc sống (với những lý do khách quan và chủ quan), như : vấn đề đảng viên làm kinh tế trải qua 20 năm tranh luận mới được khảng định; về vị trí vai trò của kinh tế tư nhân sau một thời gian dài cho đến nay Nghị quyết hội nghị TW 6 (khóa XII) mới xác định là động lực quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của đất nước; về vị trí vai trò của kinh tế hộ nông dân phải trải qua 30 năm (1958 – 1988) mới được trả về đúng bản chất khách quan của nó; về kinh tế thị trường cũng phải trải qua một chặng đường dài mấy thập kỷ đấu tranh cam go từ cho các doanh nghiệp nhà nước sản xuất theo “kế hoạch 3 phần”, từng bước xóa bỏ “cấm chợ ngăn lưu thông hàng hóa”, đến chấp nhận sản xuất hàng hóa, sử dụng cơ chế thị trường, rồi mới đến khảng định mô hình thổng thể của nền kinh tế Việt nam là thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN… Trên thực tế, còn không ít những giá trị chưa được nhận thức đầy đủ và đúng bản chất, chưa được hiện thực hóa đáp ứng với đòi hỏi phát triển của giai đoạn mới. Trong phát triển kinh tế thị trường đang bộc lộ nhiều khuyết tật mang các giá trị của kiểu thị trường “hoang dã”. 
Lỗ hổng - khiếm khuyết trong nhận thức và cơ chế lãnh đạo của Đảng và quản lý cuả Nhà nước cùng những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường đang làm nảy sinh và “dung dưỡng” nhiều giá trị tiêu cực về con người - văn hóa trong chính hệ thống chính trị và trong xã hội. Trong hệ thống chính trị đó là tình trạng tha hóa quyển lực gắn với sự suy thoái về chính trị, tư tưởng, sự tha hóa về đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên. Tình trạng chạy chức chạy quyền, “Nhất hậu duệ, nhì tiền tệ…trí tuệ cuối cùng”, “trên nóng dưới lạnh”, “trên bảo dưới không nghe”, lợi ích nhóm, tham ô, tham nhũng, cửa quyền, thái độ vô cảm, xa dân, coi thường dân, “hành dân” (có đại biểu quốc hội đã nói trên diễn đàn thảo luận tại kỳ họp thứ 4 (Quốc hội khóa XIV), tháng 10 – 2017 là “Chính phủ thì ngày càng kiến tạo, còn cán bộ - công chức thì ngày càng hành dân bạo hơn”), rồi bệnh thành tích - tư duy nhiệm kỳ…đều là những “giá trị văn hóa tiêu cực” không những trái với lý tưởng - tôn chỉ mục đích của Đảng, trái với những giá trị tốt đẹp được chế định về Nhà nước pháp quyền của dân - do dân - vì dân, làm suy yếu hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Nhưng nghiêm trọng hơn là nó làm suy giảm lòng tin của nhân dân và của xã hội đối với Đảng và Nhà nước, mà lòng tin lại là một trong những giá trị cốt lõi nhất của giá trị con người - giá trị văn hóa - giá trị xã hội, cơ sở bền vững của động lực nội sinh. Không những vậy, những giá trị tiêu cực trong hệ thống chính trị còn là “nguồn” nuôi dưỡng - cộng sinh, kích hoạt mạnh và rộng hơn những giá trị tiêu cực trong xã hội. Tình trạng không tuân thủ kỷ cương phép nước, “chủ nghĩa tư bản thân hữu”, các dự án đầu tư hàng nhiểu ngàn tỷ có tác động của lợi ích nhóm, thua lỗ, đổ bể, cách làm ăn theo kiểu chụp giật - lừa đảo, sản xuất và kinh doanh hàng giả, dùng các chất độc hại trong sản xuất lương thực thực phẩm, bạo lực học đường, án oan sai…không chỉ là hệ quả của những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, mà còn liên quan trực tiếp đến các giá trị tiêu cực và bất cập trong hệ thống chính trị. 
3. Những vấn đề đặt ra 
1) Đặc điểm của quá trình hình thành hệ giá trị mới  
Phải nhìn nhận sâu sắc rằng quá trình Đổi mới nằm sâu bên trong là quá trình đấu tranh, chuyển hóa, xây dựng và phát triển các giá trị con người - văn hóa - xã hội thể hiện cả trong nhận thức, quan điểm, xây dựng thể chế, thiết chế và trong đời sống thực tiễn. Do diều kiện và đặc điểm của quá trình chuyển đổi thể chế phát triển của Việt Nam, mà quá trình đấu tranh, chuyển hóa, xây dựng và phát triển các giá trị con người - văn hóa - xã hội trong công cuộc đổi mới mang những đặc tính sau : 
- Là quá trình đấu tranh, chuyển hóa giữa những giá trị mới và những giá trị truyền thống; 
- Là quá trình đấu tranh, chuyển hóa giữa những giá trị của thể chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp và những giá trị của thể chế kinh tế thị trường; giữa những giá trị của thể chế kinh tế thị trường hiện đại với những giá trị của thể chế kinh tế thị trường ở trình độ thấp mang nhiều yếu tố tự phát, sản xuất nhỏ “hoang dã”;
- Là quá trình đấu tranh, chuyển hóa giữa những giá trị của thể chế mô - hình phát triển và tăng trưởng theo chiều rộng sang thể chế - mô hình phát triển và tăng trưởng theo chiều sâu;
- Là quá trình đấu tranh, chuyển hóa giữa sự phát triển những giá trị của một xã hội công nghiệp, đô thị hóa, tin học hóa, hiện đại, dân chủ, văn minh với những giá trị của một xã hội còn manh nhiều dấu ấn phong kiến, tiểu nông “làng xã”, quan phương;
- Là quá trình đấu tranh, chuyển hóa giữa sự phát triển những giá trị dân tộc với những giá trị quốc tế - giá trị nhân loại;
- Là quá trình đấu tranh, chuyển hóa, sàng lọc, tích hợp giữa sự phát triển những giá trị của thể chế chính trị - xã hội mà Việt Nam xây dựng với những giá trị về thể chế chính trị - xã hội mang tính phổ quát trên thế giới trong quá trình hội nhập quốc tế.
Các cuộc đấu tranh này được thể hiện trên toàn xã hội, trong mọi lĩnh vực và ở mọi cấp độ; được thể hiện trong tất cả các chủ thể trong xã hội : hệ thống chính trị, Đảng, Nhà nước, các đoàn thể, các tổ chức, đơn vị xã hội, các gia đình và mỗi con người. Quá trình đấu tranh, chuyển hóa, phát triển các giá trị không phải là quá trình một chiều, không thể đảo ngược được; quá trình này chịu sự tác động của tất cả các yếu tố khách quan và chủ quan; mang cả tính tự giác và tự phát, tự nguyện và cưỡng chế; phụ thuộc rất nhiều vào môi trường và trình độ phát triển thực tế, vào thể chế phát triển được xác lập. Vấn đề đặt ra là, trong quá trình chuyển đổi thể chế phát triển, nhất là quá trình phát triển nhanh, mang tính “phá hủy sáng tạo”, để cho quá trình xây dựng - xác lập - phát triển các giá trị tích cực trở thành dòng chủ đạo - động lực nội sinh chi phối sự phát triển của xã hội, hạn chế được một cách  hiệu quả sự phát triển, sự tác động và lan tỏa của các giá trị tiêu cực, không còn phù hợp, thì trước hết đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải tự mình vượt lên trước, nhận thức rõ những những yêu cầu khách quan của sự phát triển đất nước trong giai đoạn bước ngoặt, nhận thức rõ các xu thế phát triền của thời đại và hội nhập quốc tế, để từ đó có nhận thức đúng và xây dựng được hệ giá trị phát triển của chính Đảng và Nhà nước thể hiện rõ bản chất tiền phong, “là đạo đức, là văn minh, là thống nhất, độc lập, là hòa bình ấm no” (như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói), đại biểu trung thành cho lợi ích của dân tộc - của đất nước, xây dựng được Nhà nước pháp quyền “kiến tạo phát triển” thực sự của dân, do dân, vì dân. Nghĩa là mỗi tổ chức Đảng và Nhà nước, đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức phải là đại diện tiêu biểu cho những giá trị con người - văn hóa - xã hội cả trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn. Đó là cơ sở quan trọng để định hình, định hướng các giá trị phát triển của đất nước, xây dựng đồng bộ ba trụ cột phát triển văn hóa (xây dựng đời sống - lối sống văn hóa, sáng tạo văn hóa, xây dựng các thể chế - thiết chế văn hóa) để làm nền tảng cho các giá trị con người - giá trị văn hóa - giá trị xã hội tích cực, tốt đẹp tồn tại và phát triển. Trong quá trình đổi mới, Đảng và Nhà nước đã làm được nhiều việc theo hướng trên, tạo động lực cho sự phát triển đất nước, đạt được những thành tựu to lớn. Tuy nhiên, cần khách quan nhìn nhận rằng, trong việc lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với phát triển văn hóa, trọng tâm là xây dựng và phát triển các giá trị con người - giá trị văn hóa - giá trị xã hội còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng với đòi hỏi cao của giai đoạn phát triển mới. Những biểu hiện suy thoái chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống, những tiêu cực trong hệ thống chính trị, sự xuống cấp về đạo đức lối sống trong xã hội đã nói lên điều này. 
2) Những vấn đề lớn đặt ra 
Thực tiễn của công cuộc đổi mới cho thấy rằng, để văn hóa phát triển và trở thành nguồn lực nội sinh cho sự phát triền nhanh và bền vững đất nước, nhất là trong bối cảnh thế giới phát triển rất nhanh và quá trình toàn cầu hóa không thể đảo ngược được (dù có gặp những trở ngại), đòi hỏi :
i). Đảng và Nhà nước phải vượt lên ngang tầm thời đại để nhận thức sâu sắc quá trình và những giá trị phát triển của nhân loại, yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn “phát triển tăng tốc” (rút ngắn), đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, để từ đó định hướng hệ các các giá trị phát triển của Việt Nam, một mặt phát huy cao những giá trị truyền thống đồng thời tiếp cận với những giá trị phát triển tiên tiến chung của nhân loại. Những giá trị đó phải phản ánh được ý chí, khát vọng và lợi ích phát triển của cả dân tộc vươn lên tiếp cận với trình độ của các nước tiên tiến và mang tính hiện thực, trong đó thể hiện được quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm và lợi ích của mỗi con người, mỗi chủ thể trong xã hội. 
ii). Đảng và Nhà nước với tư cách là những chủ thể lãnh đạo - quản lý đất nước, dẫn dắt sự phát triển của dân tộc, phải chế định rõ hệ giá trị phát triển của mình và của cả hệ thống chính trị. Các tổ chức Đảng và tổ chức Nhà nước, đội ngũ cán bộ công chức phải thực hiện các giá trị đó trong thực tiễn lãnh đạo - quản lý thực sự như ngọn đuốc sáng bằng trái tim Đan - Cô, là tấm gương và là chỗ dựa cho sự phát triển các giá trị tốt đẹp trong xã hội. Thể hiện được sâu sắc điều Chủ tịch Hồ Chí Minh nói : Đảng cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc mình và thời đại. Chỉ khi nào Đảng cộng sản thực sự là tổ chức của những người có đạo đức và văn minh cao, thì đảng mới có thể làm tròn vai trò chiến sỹ tiên phong xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa. Vì vậy Đảng và Nhà nước phải kiên quyết chống tham nhũng và tiêu cực, có cơ chế kiểm soát có hiệu quả quyền lực, kiên quyết chống sự suy thoái về chính trị tư tưởng và đạo đức lối sống trong hệ thống chính trị, xây dựng được thể chế lãnh đạo - quản lý có hiệu lực và hiệu quả cao, để tạo lập giá trị niềm tin và xác lập “chữ tín” bền vững đối với xã hội.
iii). Không thể xây dựng và phát triển thành công các giá trị con người - giá trị văn hóa - giá trị xã hội bằng con đường tư biện, mong muốn chủ quan thoát ly trình độ phát triển của thực tiễn, thoát ly các giá trị lợi ích. Phải lấy lợi ích thiết thực của mỗi tổ chức, đơn vị, mỗi cá nhân gắn hài hòa với lợi ích phát triển của quốc gia - dân tộc trong quá trình phát triển làm nền tảng cơ bản để xây dựng hệ giá trị con người - giá trị văn hóa - giá trị xã hội.
iv). Cần nhận thức rõ văn hóa không chỉ là yếu tố cấu thành nằm ở kiến trúc thượng tầng (lĩnh vực tư tưởng) mà còn là yếu tố cơ bản của cơ sở hạ tầng (mô hình và quan hệ sản xuất xã hội…), do đó không thể nhìn nhận sự phát triển của văn hóa, nhất là các giá trị con người - giá trị văn hóa - giá trị xã hội chỉ như mối quan hệ và sự tác động qua lại giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Việc xây dựng thành công các mô hình và quan hệ sản xuất kinh doanh có hiệu quả cả về kinh tế và xã hội, phát triển bền vững (như mô hình tổ chức các chuỗi sản xuất kinh doanh tiên tiến) bản thân nó đã chứa đựng những giá trị văn hóa - giá trị con người - giá trị xã hội tích cực. 
v). Khi thay đổi thể chế phát triển (tức là quá trình phát triển không theo tiến trình tuần tự mà có sự thay đổi mang tính bước ngoặt, đột phá như quá trình Đổi mới toàn diện đất nước), để thúc đẩy nhanh hình thành các giá trị con người - giá trị văn hóa - giá trị xã hội đáp ứng với đòi hỏi của giai đoạn mới (cao hơn) có thể và cần thiết phải hình thành các thể chế, thiết chế có tính “bắt buộc, cưỡng bức” để tạo cơ sở pháp lý và cơ sở xã hội cho việc hình thành, phát triển các giá trị mới trở thành động lực nội sinh cho sự phát triển (ví dụ những người nông dân khi được tuyển vào làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp hiện đại, ngoài việc học tập, tuyên truyền, giáo dục, họ buộc phải chấp hành những kỷ luật, tác phong, quy trình làm việc công nghiệp nghiêm túc, mà thời gian đầu không phải ai cũng dễ vượt qua. Hay như để xây dựng lối sống văn minh nơi đô thị - công cộng từ một xã hội nông nghiệp cổ truyền có thể và cần thiết phải có những chế tài mạnh, như Singgapore chế định sử phạt đánh bằng roi và lao động công ích đối với những người nhổ bã kẹo cao su ra đường, kể cả người nước ngoài).
vi). Phải xây dựng được hệ các giá trị phát triển đặc trưng chung cho quốc gia - dân tộc đáp ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển mới, đồng thời mỗi chủ thể trong xã hội phải xây dựng được các giá trị đặc trưng của mình. Chế định được thể chế để mỗi chủ thể trong xã hội là một thiết chế văn hóa có khả năng gìn giữ và phát triển các giá trị tốt đẹp của mình, đồng thời ngăn ngừa, cảnh báo, làm suy yếu các “giá trị tiêu cực”. Xây dựng được cơ chế kết nối các giá trị cơ bản của các chủ thể. Trên thực tế, chính sự “xung đột” về giá trị giữa các chủ thể, thiếu cơ chế liên kết và hài hòa giá trị giữa các chủ thể đã dẫn đến sự phân rã, suy yếu sức mạnh nội sinh của sự phát triển. Chỉ khi nào các giá trị tích cực, tốt đẹp trở thành yếu tố nội dung mang tính bản chất trong hoạt động thực tiễn của mỗi chủ thể và được kết nối trong toàn xã hội, hợp thành lực cộng sinh, mới tạo được sức mạnh nội sinh cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước.  
Vii). Để tạo cơ sở cho việc hình thành và phát triển các giá trị con người - giá trị văn hóa - giá trị xã hội đáp ứng với những đòi hỏi của quá trình thay đổi, phát triển nhanh, phức tạp và mang tính đột phá của thế giới hiện nay, cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp về giáo dục tuyên truyền, giải pháp về pháp lý, giải pháp về kinh tế, giải pháp về đạo đức xã hội, giải pháp “cưỡng chế”; kết hợp có hiệu quả vai trò của Đảng với vai trò của Nhà nước, vai trò của các chủ thể và vai trò của xã hội. Điều quan trọng là phải tạo được môi trường lành mạnh để khuyến khích sự hình thành, tồn tại, phát triển và khảng định của các giá trị dân chủ, giá trị sáng tạo, liên kết cộng đồng và trách nhiệm xã hội để thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững. 

PGS.TS Trần Quốc Toản
Bạn đang đọc bài viết "Vị trí và vai trò của văn hóa trong đổi mới-phát triển: Thực tiễn và những vấn đề đặt ra" tại chuyên mục CULTURAL FLOW. Mọi chi tiết xin liên hệ số hotline (08.4646.0404) hoặc gửi email về địa chỉ (toasoan.hoinhap@gmail.com).